Ít ai biết được sau khi giải phóng Phước Long ngày 6/1/1975, quân ta muốn t́m hiểu phản ứng của quân Ngụy Sài G̣n, liệu chúng có kế hoạch chiếm lại Phước Long hay không, nhiệm vụ này được giao cho điệp viên chiến lược Đinh Văn Đệ dưới vỏ bọc là Chủ tịch Uỷ ban Quốc pḥng Hạ Viện Việt Nam Cộng Hoà. Và anh đă hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này.
Đinh Văn Đệ sinh năm 1924 (Giáp Tư) tại xă Long Thuận - xă anh hùng, trước thuộc huyện Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, nay thuộc huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, cũng tại quê hương Long Thuận này đă sản sinh ra nhiều nhà t́nh báo.
Trong bộ quần áo dài màu trắng của một chức sắc đạo Cao Đài, ông Đinh Văn Đệ năm nay đă 85 tuổi, nhưng vẫn minh mẫn tiếp anh Nguyễn Tấn Tước và tôi với nụ cười đôn hậu dễ mến. Nhưng khi biết ư định của tôi gặp để viết về những hoạt động của anh trong sào huyệt đầu năo kẻ thù, anh lắc đầu từ chối, v́ anh bây giờ là người tu hành không muốn nhắc lại chuyện cũ, nhất là gần đây trên mạng có kẻ đội lốt nhà báo cách mạng công kích nói xấu anh, cho anh là kẻ phản bội chế độ Việt Nam Cộng Hoà (!).
Điều đó làm anh rất phiền ḷng, anh chỉ muốn được yên tâm lo chuyện đạo (hiện nay chức danh anh trong đạo là “Đạo trưởng Thiên vương tinh”). Anh Nguyễn Tấn Tước và tôi trao đổi với anh mục đích chuyện viết không phải đề cao cá nhân anh, mà chính là muốn nhân dân hiểu thêm về ngành T́nh báo - những chiến sĩ trên mặt trận thầm lặng - đă chiến đấu gian khổ hi sinh thế nào để đóng góp phần nhỏ của ḿnh vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong suốt cuộc trường chinh vừa qua.
Cuối cùng, sau khi đắn đo suy nghĩ cân nhắc, anh đồng ư kể lại chuyện hoạt động của ḿnh trong giai đoạn cuối cuộc chiến tranh trong vỏ bọc là “Chủ tịch Uỷ ban Quốc pḥng của Hạ Viện Việt Nam Cộng Hoà”. Tôi hỏi - trong cuộc đời làm điệp viên chiến lược “luồn sâu, leo cao” của anh có những kỷ niệm ǵ làm anh nhớ măi? Anh trầm ngâm: - Tôi xin kể ba việc mà tôi nhớ măi, coi đó là những đóng góp chút ít của ḿnh vào công cuộc giải phóng miền Nam:
1. Kế hoạch oanh kích Lộc Ninh của địch…
Sau khi ta giải phóng thị xă Phước Long ngày 6/1/1975, đồng chí Phạm Hùng (Bí thư Trung Ương Cục) có hỏi bộ phận T́nh báo miền liệu địch có tái chiếm Phước Long hay không để ta biết trước mà đối phó. Tôi được giao nhiệm vụ trả lời câu hỏi này.
Theo thủ tục thông thường tôi điện qua Phủ Thủ tướng mời ông Tổng trưởng Quốc Pḥng qua điều trần trước với Quốc hội để trả lời tại sao ḿnh có binh sĩ trong hệ thống pḥng thủ mà lại để thất thủ vào tay Việt Cộng, lỗi tại ai? Nhiều dân biểu chất vấn rất hóc búa, thậm chí chỉ trích gay gắt, khiến ông Tổng trưởng trả lời rất vất vả. Tôi đă liệu trước t́nh huống này, nên sau phiên họp, tôi đến gần ông an ủi: “Tôi thấy các anh cực quá. Thôi tôi tính thế này, từ rày tôi sẽ giúp anh, anh nói bên tướng Cao Văn Viên (Bộ Tổng tham mưu) cấp cho Chủ tịch Uỷ ban Quốc Pḥng một cái giấy thông hành thường trực để được ra vào bên cơ quan quốc pḥng, trực tiếp hỏi Trưởng pḥng hành quân để báo cáo t́nh h́nh với Quốc hội, khỏi bắt các anh đi lại điều trần vất vả” - anh Đệ cười nói tiếp - Ông Tổng trưởng quốc pḥng chịu ngay. Thế là họ trúng kế, lại c̣n chịu ơn tôi nữa.
Có giấy thông hành trong tay, tôi qua gặp trưởng pḥng hành quân may lại trúng người tôi đă quen biết cũ khi c̣n học ở trường vơ bị Thủ Đức, nay mang quân hàm chuẩn tướng. Tôi hỏi: - Phước Long thất thủ rồi liệu có tái chiếm lại không? Anh ta vỗ vai tôi thân mật: “Đại ca đừng lo (hồi học ở Thủ Đức, đám học viên hay gọi tôi là “đại ca”). Ai dại ǵ kéo bộ binh lấy lại cái nơi ḿnh pḥng thủ rồi thất thủ. Tôi sẽ phục thù bằng cách khác, sẽ cho máy bay quần nát Lộc Ninh”. Tôi báo cáo tin đó về căn cứ, lănh đạo lại hỏi có thật chắc không? Tôi đă trả lời là chắc, v́ viên chuẩn tướng ấy c̣n cho tôi xem trên bản đồ hắn ghim cái đinh mũ tại Lộc Ninh kư hiệu oanh kích rơ ràng.
Quả nhiên vài ngày sau, máy bay địch ném bom Lộc Ninh. V́ biết trước nên ta tránh được thiệt hại, nhưng quan trọng hơn là ta yên tâm chuyển quân lên đánh trên Tây Nguyên, sau đó là tấn công Buôn Ma Thuột… Anh nhấp một ngụm nước rồi kể tiếp.
2. Trung Ương Cục ở đâu?
Việc thứ hai là lănh đạo cứ muốn biết liệu địch có nắm được Trung Ương Cục ở đâu và động thái chuyển quân của ḿnh không. Tôi ngẫm nghĩ kỹ rồi không đi hỏi bên Bộ Quốc Pḥng mà trực tiếp khảo sát ngoài chiến trường - ta gọi là “đi thực tế” - cho chắc ăn.
Tôi điện sang Bộ Quốc Pḥng đề nghị cấp cho tôi - Chủ tịch Uỷ ban Quốc pḥng Hạ Viện - một chiếc trực thăng, cho Trung tướng Tôn Thất Đính, Chủ tịch Uỷ ban Quốc pḥng Thượng Viện một chiếc, và cho Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng một chiếc để đi uỷ lạo binh sĩ đang tổ chức tử thủ, v́ lúc này, Pleiku, Đà Nẵng đă bị ta chiếm. Đoàn bay đến Bến Cát (B́nh Dương) nơi Sư Đoàn 5 đang bố trí lực lượng pḥng thủ, tôi hỏi: Địch đă biết rơ ta ở đâu, c̣n ta có biết Trung Ương Cục của địch ở đâu không và có biết địch di chuyển thế nào không. Đến Sư Đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo ở Xuân Lộc, tôi cũng hỏi như vậy. Họ trả lời thế nào tôi cũng đều nhập tâm hết, lại được xem những bản đồ hành quân của họ.
Với vốn kiến thức quân sự đă giúp tôi tổng hợp được t́nh h́nh và cung cấp thông tin thâu nhận được ra ngoài cứ, để phân tích, v́ chính tôi cũng không biết Trung Ương Cục ở đâu và quân ta di chuyển như thế nào… Chắc chắn những thông tin ấy rất bổ ích giúp ta bảo toàn ưu thế bí mật, chủ động và bất ngờ…
3. Xin viện trợ để Mỹ cắt viện trợ
Chuyện tham gia phái đoàn sang Mỹ không phải xin viện trợ b́nh thường mà chính là xin “viện trợ khẩn cấp”. Anh giải thích - số là sau khi tan vỡ mặt trận Tây Nguyên phải bỏ Pleiku, Đà Nẵng, t́nh h́nh quân Ngụy rất nguy kịch. Tất cả đều trông chờ vào viện trợ Mỹ để cứu văn. Thiệu vẫn ngoan cố không chịu từ chức, c̣n ông Kỳ vẫn hung hăng thề tử thủ, đại sứ Mỹ ở Sài G̣n Martin th́ hối thúc viện trợ. Chính trường bên Mỹ rất hoang mang không biết nên tiếp tục hay bỏ cuộc chiến. Chính trong t́nh thế đó, Sài G̣n quyết định cử phái đoàn Quốc hội sang Mỹ để vận động xin viện trợ khẩn cấp để cứu nguy.
Tôi là Chủ tịch Ủy ban Quốc pḥng Hạ Viện, đương nhiên phải tham gia phái đoàn. Theo chương tŕnh, khi sang Mỹ các Nghị sĩ sẽ chia nhau làm việc và vận động “hành lang” với các cơ quan và chính khách Mỹ. Trước khi đi, tôi suy nghĩ măi làm cách nào để vận động xin viện trợ mà kết quả lại để Mỹ “cắt viện trợ”. Quả là một công việc hết sức khó, nhưng phải làm bằng được.

Nhà Trắng của Mỹ
Khi sang Mỹ mỗi đại biểu đều có nhân viên Đại sứ quán Việt Nam Cộng Hoà bên đó đi kèm, hớ hênh là bại lộ hay đẩy chiều hướng trái ư đồ của ḿnh. Chính kiến thức quân sự của tôi học của Mỹ đă giúp tôi chọn cách lấy chính sự thật đang diễn ra trên chiến trường Việt Nam, hướng cho Mỹ thấy chính t́nh thế không thể cứu văn được là cách thuyết phục tốt nhất để Mỹ bỏ cuộc mà ḿnh bề ngoài vẫn tỏ ra tha thiết yêu cầu viện trợ khẩn cấp để cứu nguy.
Với cái chiêu “nói vậy mà không phải vậy”, làm cho các đại biểu trong Đoàn thấy tôi là người tận tụy yêu cầu tha thiết nhất xin viện trợ khẩn cấp để cứu chế độ Sài G̣n khỏi sụp đổ. Chính sự thông tin về chiến trường của tôi – qua cách tư duy của người Mỹ - khiến họ nản chí muốn bỏ cuộc. Tôi đưa ra h́nh ảnh những người lính Cộng Ḥa níu càng máy bay trực thăng để trốn chạy khỏi chiến trường th́ người Mỹ hiểu ngay họ phải làm ǵ.
Qua các cuộc vận động hành lang rồi tiếp đến là phái đoàn được Tổng thống Mỹ G. Ford mời đến gặp ở Nhà Trắng. Đây chính là phiên họp quan trọng nhất quyết định sự thành bại của chuyến đi. Mỗi đại biểu đều nói – trong đó có tôi – Tổng thống Mỹ đều lắng nghe hết, cuối cùng ông kết luận: “Thôi các vị cứ yên tâm về đi. Tôi sẽ cử một vị tướng qua thị sát t́nh h́nh rồi sẽ quyết định sau”. Nghe Tổng thống Mỹ nói như vậy, tôi hiểu ngay là Mỹ sẽ bỏ cuộc… và như vậy là tôi đă hoàn thành nhiệm vụ. Ngay sau đó, một vị tướng được cử sang Sài G̣n với rất đông các quan chức chuyên viên Mỹ tháp tùng… để rồi cắt viện trợ. Và những ǵ xảy ra sau đó th́ chúng ta đă biết cả rồi.
*
* *
Đă gần 34 năm trôi qua sau chiến thắng lịch sử Mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cũng như bao chiến sĩ T́nh báo quân sự khác – những anh hùng trong mặt trận thầm lặng – Đinh Văn Đệ trở về cuộc sống một công dân b́nh thường cùng gia đ́nh phụng sự Đạo như bao giáo sĩ Cao Đài khác. Anh không đ̣i hỏi sự đăi ngộ của cấp trên đối với những thành tích mà anh đă cống hiến bằng sức lực, trí tuệ cho ngành, cho cách mạng trong suốt quá tŕnh hoạt động bí mật. Anh coi đó là phần đóng góp nhỏ nhoi của ḿnh vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc, làm tṛn nhiệm vụ của người chiến sĩ vô danh. Anh không được may mắn như các đồng chí T́nh báo chiến lược khác như Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ và một số đồng đội khác – c̣n sống hay đă hy sinh – được Đảng và Nhà nước thưởng công lao một cách trang trọng… Trong thâm tâm anh thông cảm và chia sẻ niềm vui với họ.
Trong cuộc trường chinh kéo dài suốt ba mươi năm của dân tộc, đánh bại hai đế quốc hùng mạnh nhất để bảo vệ nền độc lập, thống nhất tổ quốc, đă có biết bao cán bộ chiến sĩ T́nh báo hy sinh thầm lặng, thậm chí có đồng chí khi chết c̣n mang tiếng là “Việt gian” mà ngành không làm sao thanh minh được, chỉ có ngành và tổ quốc ghi nhận công lao của họ. Một lần nữa, tôi lại nhớ đến nhà văn Lê Tri Kỷ viết trong lời tựa quyển tiểu thuyết t́nh báo của ông: “Kính tặng những người chết không để lại tên, những người c̣n sống không muốn nêu tên”. Nhưng những đóng góp vô giá của họ vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc th́ Tổ quốc và nhân dân ta không bao giờ quên, “uống nước nhớ nguồn” là một đạo lư truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ xưa đến nay.
Dương Linh, honvietquochoc.com.vn, ngày 28/5/09
NDVN, ngày 17/6/09